Khử khoáng là gì? Các công bố khoa học về Khử khoáng

Khử khoáng là quá trình loại bỏ các khoáng chất từ một chất hay một hỗn hợp. Quá trình này thường được thực hiện để tách các khoáng chất không mong muốn khỏi mộ...

Khử khoáng là quá trình loại bỏ các khoáng chất từ một chất hay một hỗn hợp. Quá trình này thường được thực hiện để tách các khoáng chất không mong muốn khỏi một mẫu hoặc để tinh lọc và làm sạch một chất trong quá trình chế biến công nghiệp. Có nhiều phương pháp khử khoáng khác nhau, bao gồm sự kết tuỳ các chất khoáng phức tạp, sử dụng chất hóa học hoặc quá trình vật lý như sục khí thông qua chất.
Quá trình khử khoáng được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp, bao gồm công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp nước và công nghiệp điện. Dưới đây là một số phương pháp khử khoáng phổ biến:

1. Kết tuỳ: Đây là phương pháp thông dụng nhất để khử khoáng. Khi sử dụng kết tuỳ, chất đang chứa khoáng được hâm nóng đến nhiệt độ cao, sau đó được làm lạnh nhanh chóng. Quá trình này gây ra việc tạo ra các hạt kết tuỳ, gắn liền với khoáng chất. Các hạt này sau đó có thể được tách bằng các phương pháp cơ khí như sàng lọc hoặc thông qua sự phân chia qua các kích thước hạt.

2. Sử dụng chất hóa học: Các chất hóa học như axit, kiềm hoặc chất phức tạp khác có thể được sử dụng để khử khoáng. Ví dụ, trong quá trình khử khoáng nước hoặc quá trình xử lý thực phẩm, axit citric thường được sử dụng để loại bỏ các khoáng chất như canxi hoặc magie. Một lượng nhỏ chất hóa học được thêm vào chất muốn khử khoáng, sau đó các khoáng chất tạo thành hợp chất hoặc kết tủa có thể được loại bỏ bằng cách lọc hoặc kết tinh.

3. Quá trình vật lý: Sục khí là một phương pháp phổ biến để khử khoáng. Bằng cách thổi khí qua một chất, các chất khử có thể loại bỏ các ion không mong muốn. Sục khí thường được sử dụng để tạo ra các bọt bong lớn trong các quá trình như xử lý nước hoặc xử lý chất thực phẩm để tách các hợp chất khoáng chất.

Quá trình khử khoáng góp phần trong việc cải thiện chất lượng sản phẩm và đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn của công nghiệp. Nó giúp giảm thiểu sự ảnh hưởng của các khoáng chất không mong muốn đối với hiệu suất và chất lượng của các quá trình sản xuất.
Dưới đây là một số phương pháp khử khoáng chi tiết hơn:

1. Trung hòa hóa học: Phương pháp này sử dụng chất khử để trung hòa các ion khoáng trong chất muốn khử khoáng. Ví dụ, trong quá trình khử khoáng nước, các chất khử như sodium bisulfite hay sodium metabisulfite có thể được sử dụng để loại bỏ các ion clo, brom hoặc iod có thể gây hiện tượng trắng ảo khi sử dụng nước.

2. Phương pháp trao đổi ion: Trong phương pháp này, các chất trao đổi ion được sử dụng để loại bỏ các ion không mong muốn trong chất. Các chất trao đổi ion có chứa các nhóm chức chất điều chế có khả năng trao đổi ion với các ion trong dung dịch mà chúng tiếp xúc. Sau khi trao đổi, các chất trao đổi ion có thể được thay thế hoặc tái sinh để tiếp tục quá trình trao đổi.

3. Quá trình kết tủa: Phương pháp này sử dụng chất gây kết tủa để lắng xuống và loại bỏ các khoáng chất. Các chất gây kết tủa như hydroxide, sulfide, carbonate hoặc oxalate có thể được thêm vào để phản ứng với các ion trong chất muốn khử khoáng và tạo thành kết tủa. Các kết tủa sau đó có thể được tách ra bằng cách kết tinh, kết tuỳ hoặc lọc.

4. Sử dụng màng ngược thông: Phương pháp này sử dụng màng ngược thông để loại bỏ các ion không mong muốn trong chất. Màng ngược thông có các lỗ nhỏ chỉ cho phép nước và các phân tử nhỏ khác lọt qua, trong khi các ion và phân tử lớn hơn bị phản xạ lại. Quá trình này được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp xử lý nước để loại bỏ các ion có thể gây cứng nước như canxi và magiê.

Quá trình khử khoáng tùy thuộc vào công nghệ và mục đích sử dụng, có thể áp dụng một hoặc nhiều phương pháp khác nhau để đạt được kết quả tốt nhất.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "khử khoáng":

Vip3A, một protein diệtkhuẩn mới của Bacillus thuringiensis có hoạt lực rộng đối với côn trùng thuộc bộ cánh vẩy. Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 93 Số 11 - Trang 5389-5394 - 1996

Một gene diệtkhuẩn thực vật mới, vip3A(a), có sản phẩm gene thể hiện hoạt động chống lại ấu trùng côn trùng thuộc bộ cánh vẩy bao gồm sâu khoang (Agrotis ipsilon), sâu cuốn lá nhỏ (Spodoptera frugiperda), sâu cuốn lá lớn (Spodoptera exigua), sâu phao thuốc lá (Heliothis virescens), và sâu xám (Helicoverpa zea) đã được phân lập từ dòng Bacillus thuringiensis AB88. Các gene vip3A diệtkhuẩn tương đồng đã được phát hiện trong khoảng 15% các dòng Bacillus được phân tích. Trình tự của gene vip3A(b), đồng dạng của vip3A(a) được phân lập từ dòng B. thuringiensis AB424 cũng được báo cáo. Protein Vip3A(a) và (b) giúp E. coli có hoạt lực diệtkhuẩn chống lại ấu trùng côn trùng bộ cánh vẩy được đề cập bên trên. Trình tự gene dự đoán một protein có 791 axit amin (88,5 kDa) không chứa sự đồng dạng với các protein đã biết. Các protein diệtkhuẩn Vip3A được tiết ra mà không cần xử lý N-terminal. Khác với endotoxin 5 của B. thuringiensis, chỉ được biểu hiện trong giai đoạn hình thành bào tử, protein diệtkhuẩn Vip3A được biểu hiện trong giai đoạn phát triển thực vật bắt đầu từ pha logarithm trung bình và trong cả quá trình hình thành bào tử. Vip3A đại diện cho một nhóm protein mới có khả năng diệtkhuẩn đối với ấu trùng côn trùng thuộc bộ cánh vẩy.

#Bacillus thuringiensis #Vip3A protein #côn trùng cánh vẩy #chất diệt khuẩn thực vật mới #axit amin 791 #diệtkhuẩn thực vật #sâu khoang #sâu cuốn lá nhỏ.
Khả năng tái khoáng hóa và sự bảo vệ khỏi quá trình khử khoáng: ảnh hưởng của kem đánh răng chứa hydroxyapatite, kem đánh răng chứa fluoride và kem đánh răng không chứa fluoride lẫn hydroxyapatite đối với men răng con người trong điều kiện in vitro Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2022
Tóm tắt Đặt vấn đề

Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá tiềm năng tái khoáng hóa cũng như mức độ bảo vệ khỏi quá trình khử khoáng tái diễn của men răng bởi kem đánh răng chứa hydroxyapatite (Karex) so với kem đánh răng chứa fluoride (Elmex) và kem đánh răng không chứa fluoride lẫn hydroxyapatite (Ajona) như là nhóm đối chứng.

Phương pháp

Bảy mươi bảy mẫu men răng được thu thập từ 19 chiếc răng của người. Năm bề mặt phân định được tạo ra trên mỗi chiếc răng (S0—S4). Bốn bề mặt (S1—S4) được tiếp xúc với axit lactic (pH 3) trong 8 giờ (quá trình khử khoáng). S0 không bị xử lý để làm nhóm đối chứng. S1 chỉ được xử lý bằng axit. Sau khi khử khoáng, S2 được tiếp xúc với Karex trong 2 phút, trong đó có 15 giây đánh răng. S3 được xử lý bằng Elmex và S4 bằng Ajona, theo đó. Sau đó, các mẫu được đánh giá bằng kính hiển vi điện tử quét và phần mềm phân tích hình ảnh ImageJ để xác định tỷ lệ khử khoáng. Tiếp theo, S2-S4 lại được tiếp xúc với axit lactic trong 2 giờ, và được phân tích pixel một lần nữa. Dữ liệu được phân tích thống kê bằng ANOVA với kiểm định Scheffé và kiểm định Kurskal-Wallis.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ TẠO HÌNH KHUYẾT HỔNG KHOANG MIỆNG BẰNG VẠT DƯỚI CẰM TRONG ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT UNG THƯ KHOANG MIỆNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả tạo hình khuyết hổng khoang miệng bằng vạt dưới cằm trong điều trị phẫu thuật ung thư khoang miệng. Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm 25 BN mắc ung thư khoang miệng được phẫu thuật cắt bỏ u và tạo hình bằng vạt dưới cằm tại khoa Ngoại đầu cổ, Bệnh viện K giai đoạn từ T1/2015 đến T3/2020. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu. Kết quả: Trong số 25 BN nghiên cứu, tuổi mắc bệnh trung bình là 56,4 ± 10,3 tuổi; Tỷ lệ Nam/ Nữ 7,3/1. Trong đó: 17 BN ung thư sàn miệng, 4 BN niêm mạc má, 3 BN lưỡi, 1 BN lợi hàm dưới; BN chủ yếu ở giai đoạn T2 (64%) và N0 (72%). Kích thước u trung bình 22,4 ± 6,2 mm. Kích thước vạt dưới cằm, chiều dài trung bình 42,8 ± 7,9mm, chiều rộng trung bình 30,2 ± 6,8 mm. Tình trạng vạt tạo hình sau mổ 88% sống, có 3 TH vạt hoại tử một phần chiếm 12%. Chức năng phát âm và nuốt sau mổ đều đạt kết quả tốt và trung bình ở tất cả các bệnh nhân. Có 68% được xạ trị hoặc hóa xạ trị sau mổ, không có mối liên quan giữa điều trị tia xạ sau mổ với tỷ lệ vạt sống (p = 0,527), chức năng nói (p = 0,114) và chức năng nuốt (p = 0,432). Kết luận: Vạt dưới cằm là lựa chọn thích hợp cho các khuyết hổng trong khoang miệng kích thước từ nhỏ đến trung bình sau cắt bỏ u nguyên phát do đây là kỹ thuật an toàn, hiệu quả, tỷ lệ biến chứng thấp, kèm theo kết quả chức năng tốt, thẩm mỹ.
#ung thư khoang miệng #tạo hình #vạt dưới cằm
ỨNG DỤNG CÁC VẠT DA CƠ CÓ CUỐNG TRONG TẠO HÌNH KHUYẾT HỔNG SAU PHẪU THUẬT TRIỆT CĂN UNG THƯ BIỂU MÔ KHOANG MIỆNG TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
  Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô khoang miệng là một trong những ung thư thường gặp nhất của hệ đầu mặt cổ. Do những đặc thù về mặt giải phẫu, điều trị triệt căn có thể để lại những tổn khuyết. Việc ứng dụng phẫu thuật tái tạo là vô cùng cần thiết, giúp mở rộng chỉ định phẫu thuật, phục hồi các tổn khuyết, đem lại cơ hội sống và sống tốt hơn cho bệnh nhân. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả ứng dụng các vạt da cơ có cuống trong tạo hình khuyết hổng sau phẫu thuật triệt căn ung thư biểu mô khoang miệng tại bệnh viện Trung ương Huế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, có can thiệp lâm sàng trên 34 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy khoang miệng được phẫu thuật tại Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 03 năm 2020 đến tháng 12 năm 2022. Kết quả: Đã sử dụng 34 vạt da cơ có cuống trong tạo hình khuyết hổng sau phẫu thuật triệt căn ung thư biểu mô khoang miệng. Trong đó Vạt cân thái dương sử dụng cho 3 trường hợp (8,8%). Vạt cân cơ thái dương sử dụng cho 6 trường hợp (17,6%). Vạt da cân cơ dưới hàm sử dụng cho 15 trường hợp (44,1%). Vạt da cân cơ ngực lớn sử dụng cho 10 trường hợp (29,5%). Kết quả nghiên cứu với 88,2% vạt sống tốt, không có biến chứng nặng sau mổ, phục hồi chức năng tốt và tỷ lệ tái phát thấp sau mổ. Kết luận:  Sử dụng các vạt da cơ có cuống linh hoạt là lựa chọn phù hợp cho các tổn khuyết trung bình và lớn sau phẫu thuật cùng với tái tạo cơ quan quan trọng nhằm bảo tồn chức năng sống và hình thái của vùng khoang miệng cho bệnh nhân ung thư.
#Ung thư khoang miệng #vạt cân cơ thái dương #vạt dưới hàm #vạt cơ ngực lớn
Phân tích kết cấu khung bằng phương pháp phần tử hữu hạn khoảng
Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (TCKHCNXD) - ĐHXDHN - Tập 7 Số 1 - Trang 18-29 - 2013
Bài báo trình bày các nghiên cứu về phương pháp PTHH khoảng để mô tả các yếu tố không chắc chắn của kết cấu là những số khoảng bị chặn trên và chặn duới nhưng không gắn với một cấu trúc xác suất nào. Từ đó, tác giả đã ứng dụng vào việc phân tích kết cấu thanh với các tham số vật liệu, hình học, liên kết và tải trọng là các tham số khoảng. Các kết quả nhận được xấp xỉ với nghiệm chính xác và có thể ứng dụng vào thực tế. Từ khóa: Yếu tố không chắc chắn; Số khoảng; Phương pháp PTHH khoảng Nhận ngày 18/2/2013, chỉnh sửa ngày 18/3/2013, chấp nhận đăng 30/3/2013
Khảo sát phóng xạ nền tại khu dân cư sống trên vùng sa khoáng Ilmenhite Tân Long, Lagi, Bình Thuận
Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 Mức phông phóng xạ trên trái đất được hình thành từ các nguồn thuộc vỏ trái đất như 40 K, 232 Th, 238 U, 226 Ra và các tia vũ trụ hay bụi phóng xạ. Mức phông thường gần như không đổi trên phạm vi toàn thế giới và nằm trong khoảng 0,08 -0,15 µGy/h [1] . Nhưng cũng có những vùng, mức phông phóng xạ tự nhiên cao bất bình thường được gọi vùng dị thường phóng xạ. Các vùng này đã được tìm thấy nhiều nơi trên thế giới như Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ, Úc,… [7] , [11] , [9] , [2] . Ở Việt Nam, các vùng như vậy nằm dọc bờ biển Nam Định, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận, Ninh Thuận, Vũng Tàu. Vùng dị thường phóng xạ do các khoáng vật chứa phóng xạ, chủ yếu là monazite đôi khi đi kèm với ilmenite và được lắng tụ tạo nên cát có màu đen đặc trưng. Các nhân phóng xạ chính trong monazite là 232 Th, 238 U và dĩ nhiên 226 Ra. st1\:*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
Tổng quan các phương pháp Nhận dạng khuôn mặt dựa trên Đặc trưng cạnh
Nhận dạng khuôn mặt là một trong những vấn đề quan trọng trong hướng nghiên cứu về nhận dạng của ngành thị giác máy tính. Do tính giống nhau của khuôn mặt nên việc trích ra các đặc trưng của khuôn mặt dùng cho nhận dạng là rất khó. Trong các đặc trưng của khuôn mặt dùng để nhận dạng thì đặc trưng về cạnh là một đặc trưng chỉ mới được nghiên cứu và phát triển trong những năm gần đây. Bài báo này sẽ giới thiệu tổng quát về một hướng nghiên cứu nhận dạng khuôn mặt dựa trên bản đồ cạnh (edge map) của khuôn mặt. Việc tính toán sự trùng khớp sẽ dựa trên khoảng cách Hausdorff. Các mô phỏng sẽ so sánh sự chính xác của việc nhận dạng khuôn mặt dựa vào bản đồ cạnh với phương pháp rất phổ biến của nhận dạng khuôn mặt là Eigenface. Các kết quả cũng chỉ ra rằng việc nhận dạng khuôn mặt dựa vào bản đồ cạnh cho kết quả nhận dạng chính xác cao hơn phương pháp Eigenface trong hầu hết các so sánh.
#Eigenface #nhận dạng khuôn mặt #bản đồ cạnh #khoảng cách Hausdorff #đặc trưng khuôn mặt
Các chỉ số oxy hóa và mối liên quan với phơi nhiễm chì ở trẻ em một số khu công nghiệp khai khoáng và làng nghề tại tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên và Hưng Yên
Tạp chí Y học Dự phòng - Tập 30 Số 4 Phụ bản - Trang 74-82 - 2020
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu trên thế giới đánh giá ảnh hưởng ô nhiễm chì trong môi trường đến sự phát triển của trẻ em, phơi nhiễm chì và mối liên quan đến các chất oxy hóa, chống oxy hóa. Mục đích của nghiên cứu này là bước đầu xác định các chỉ số oxy hóa và mối liên quan với phơi nhiễm chì ở trẻ em một số khu công nghiệp khai khoáng và làng nghề tại Việt Nam. Nhóm nghiên cứu bao gồm 110 trẻ em sống tại vùng ô nhiễm và nhóm đối chứng 42 trẻ em có hàm lượng chì máu < 10µg/dL. Kết quả phân tích cho thấy, hàm lượng Malondialdehyde (MDA) trung bình huyết tương, hoạt độ Total Antioxidant Status (TAS) trung bình nhóm trẻ nghiên cứu cao hơn nhóm đối chứng, hàm lượng - SH trung bình huyết tương nhóm trẻ nghiên cứu thấp hơn nhóm đối chứng. Hàm lượng MDA, SH, hoạt độ TAS giữa hai nhóm khác biệt có ý nghĩa thống kê tương ứng với p <0,01; p<0,05; p< 0,01. Có mối tương quan nghịch giữa hàm lượng Glutathione Peroxidase (GPX) hồng cầu, hàm lượng SH huyết tương với hàm lượng chì máu, tương quan thuận giữa hoạt độ TAS huyết tương với hàm lượng chì trong máu với p< 0,05. Đây là nghiên cứu đầu tiên đánh giá phơi nhiễm chì có liên quan đến các chỉ số oxy hóa, chống oxy hóa trẻ em Việt Nam.
#Chì máu #Streesoxy hóa #Glutathione Peroxidase #Malondialdehyde MDA #Total Antioxidant Status
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG VEN BIỂN TẠI KHU VỰC KHAI THÁC SA KHOÁNG TITAN Ở THIỆN ÁI, HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN
Bài báo làm sáng tỏ vấn đề ô nhiễm môi trường tại khu vực khai thác sa khoáng Titan (Ti) ở Thiện Ái, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Đã có sự ô nhiễm dầu khoáng, hoạt độ phóng xạ (a, b), hữu cơ, vi khuẩn và nhiễm mặn vào môi trường tại và xung quanh khu vực khai khoáng. Ngoại trừ hữu cơ và vi khuẩn, các thành phần ô nhiễm khác bắt nguồn từ hoạt động khai thác sa khoáng. Sự xuất hiện các thành phần ô nhiễm đang đe doạ môi trường ven biển và cộng đồng dân cư địa phương. Nhiễm mặn vào nước ngầm gây thiếu hụt nguồn nước sinh hoạt của người dân. Hoạt động khai thác sa khoáng Titan cũng làm biến đổi nghiêm trọng cảnh quan tự nhiên vùng ven biển. Ô nhiễm môi trường ven biển ở vùng này hiện còn mang tính cục bộ tại chỗ. Nếu quy mô khai thác được mở rộng, việc đánh giá tác động môi trường và giám sát hoạt động khai thác cần được tiến hành đầy đủ và nghiêm túc để giảm thiểu những tác động tiêu cực đến môi trường.
Tổng số: 87   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 9